NGUYEN NGOC ANH
Blog của Ngọc Anh điểm tin-trao đổi thông tin các hoạt động VHTT-TT SONDONG
Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2019
Thứ Năm, 9 tháng 5, 2019
Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011
Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011
Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011
Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011
SỬA LỖI INTERNET TRONG WINDOW7
Khi cài một số phần mềm vào Windows 7, chẳng hạn như Adobe Photoshop CS3 hay Dreamwaver, có thể do xung đột nên gây ra lỗi Multiple Networks ở Windows 7 sau mỗi lần khởi động lại máy.
Mình hướng dẫn các bạn cách khắc phục hiện tượng này.
Đầu tiên, bạn vào Control PanelAll Control Panel ItemsAdministrative Tools. Sau đó chọn mở Component Services
Cửa sổ mới xuất hiện, nhánh bên trái, bạn chọn đến Services (Local), sau đó sẽ xuất hiện các dịch vụ ở máy tính của bạn bên khung phải.
Bạn chọn đến dòng ##Id_String1.6844F930_1628_4223_B5CC_5BB94B879762# #
Click chuột phải vào đó, chọn Properties. Ở khung Startup type: bạn chọn Automatic (Delayed Start)
Vậy là đã hoàn thành.
Mình hướng dẫn các bạn cách khắc phục hiện tượng này.
Đầu tiên, bạn vào Control PanelAll Control Panel ItemsAdministrative Tools. Sau đó chọn mở Component Services
Cửa sổ mới xuất hiện, nhánh bên trái, bạn chọn đến Services (Local), sau đó sẽ xuất hiện các dịch vụ ở máy tính của bạn bên khung phải.
Bạn chọn đến dòng ##Id_String1.6844F930_1628_4223_B5CC_5BB94B879762# #
Click chuột phải vào đó, chọn Properties. Ở khung Startup type: bạn chọn Automatic (Delayed Start)
Vậy là đã hoàn thành.
Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2011
TÌM HIỂU VỀ "XƯỚNG CA VÔ LOÀI"
Sách vở thường nói rằng xã hội Việt Nam ngày xưa có "Sĩ, nông, công, thương". Như vậy là còn thiếu. Người ta đã cố ý không kể một hạng người là bọn xướng ca vô loài vì không biết sắp xếp bọn này vào đâu cho ổn.sưu tầm từ VườnTinhNhân.net
Xướng ca bị coi là vô loài, bị khinh rẻ không thua gì thằng mõ.
Bị khinh từ năm xửa năm xưa, từ thời vua Lê Nhân Tôn (1447) xa tít.
Trai gái bá vai bá cổ nhau ca hát là thói dâm tục rất xấu, cấm không được nhảm nhí trước kiệu vua. Muốn tốt đẹp, trang nghiêm thì... vào cung vua mà múa với hát!Nguyên văn của Ngô Sĩ Liên:
Dân Thanh Hóa thấy vua đến, trai gái đem nhau hát rí ren ở hành tại. Tục hát rí ren một bên con trai, một bên con gái, dắt tay nhau hát, hoặc tréo chân tréo cổ nhau, gọi là cắm hoa kết hoa, thói rất là xấu. Đài quan Đồng Hanh Phát bẩm với thái uý Khả rằng: "Lối hát ấy là thói dâm tục xấu, không nên cho người hát nhảm ở trước xa giá". Khả liền sai cấm hẳn.
(Đại Việt sử kí toàn thư, tập 3, tr. 139, 1968, NXB KHXH)
Năm 1462, vua Lê Thánh Tôn quy định rằng "Nhà phường chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan, có tiếng xấu, bản thân và con cháu đều không được đi thi, nếu mang sách hay mượn người làm hộ, thì trị tội theo luật." (Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr.183).
Phường chèo, con hát được bỏ cùng một rọ với đám phản nghịch, ngụy quan, có tiếng xấu. Cứ đà này thì có ngày mất mạng như chơi chứ chẳng đùa. Luật lệ nghiêm khắc và vô lí của Lê Thánh Tôn đã đẩy một số người trở về làng cũ học cày cho xong, học chữ thánh hiền chỉ tổ toi cơm tốn gạo.
Phường chèo, con hát bị vùi dập có lẽ chỉ vì:
Mặc dù bị vua quan và nhà nho khinh ghét, mặc dù không được đi thi để ra làm quan lớn, bọn phường chèo, con hát vẫn tiếp tục hành nghề và vẫn được nhiều người dân thường ưa thích.Nguyên văn của Toan Ánh:
Xã hội ta xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ sa đọa, chính sự sống của họ cũng không phải là sa đọa, mà chỉ vì những vai trò của họ đóng khi xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì người con có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai bày tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha con... Tất cả cái vô luân là ở đây, ở đấy luân thường đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong những lúc trình diễn.
(Phong tục Việt Nam tr. 429, 1969, NS Khai Trí)
May thay... cơ trời vần xoay, rồi cũng đến một ngày mai sáng sủa hơn.Nguyên văn của Phạm Đình Hổ:
Khoảng năm Cảnh Hưng, phường hát chèo bội mới pha thêm lối tuồng, cũng đóng vai trò vẽ mặt ra múa hát đùa cợt, không khác gì ở hí trường. Các nhà tang gia hay đua nhau mượn phường chèo đóng tuồng để khoe khoang.Các quan chính phủ ghét hung lễ lại dùng lẫn lộn cả cát lễ, bèn nghiêm cấm, đã hơn mười năm. Đến năm Canh Tuất (1790) lại thấy dân gian bày trò hát bội ấy. Các con nhà lương gia tử đệ có người bỏ cả chức nghiệp đi theo học hát, khăn áo dáng bộ như đàn bà, thường khi ở nhà cũng nghêu ngao tập hát chèo, trước mặt khách cũng không thẹn thò gì cả. Lại còn trò đánh bạc chọi gà sinh ra nhan nhản. Tập tục đến thế thật đáng buồn!
(Vũ trung tuỳ bút tr. 57, 1972, NXB Văn Học)
"Lệ cũ, cứ con nhà hát xướng không được vào nhà học hiệu, thi đỗ ra làm quan. Tiếc rằng không mở rộng đường cho kẻ tuấn dị tiến thân, để thu lấy nhân tài xuất chúng. Từ khi Lộc Khê Hầu (Đào Duy Từ) là con nhà hát xướng, vì không được ra thi, mới lẻn vào giúp nhà Nguyễn ở trong Nam, bấy giờ những kẻ đương sự mới hối rằng cái cách tìm kiếm nhân tài như thế là không rộng. Nhưng cũng chưa công nhiên bãi bỏ lệ cũ. Từ khi bà Trương quốc mẫu, người Như Kinh, là kẻ hát xướng được tuyển vào cung hầu Tần Quang Vương, sinh ra Trịnh Nhân Vương (Trịnh Cương), Biện trưởng cung, người Á Lữ, sau lại đắc sủng với Nhân Vương, nên các họ về giáo phường mới được kể bằng hàng với các họ nhà lương gia. Sau này các họ nhà đại khoa hiển hoạn cũng thường có người do giòng họ hát xướng mà phát đạt lên, nên những kẻ sĩ phu cũng cùng họ giao du tự nhiên, và rồi những nhà hát xướng cũng quên hẳn thế hệ nhà mình tự đâu mà ra. Xem đó thì biết thế vận phong tục mỗi ngày một khác." (Vũ trung tuỳ bút, sđd, tr. 79-80).
Phải công nhận là... mê gái cũng có cái hay! Bên trên mê gái thì bên dưới cũng được nhờ! Vua chúa một khi quen hơi đào hát thì bao nhiêu cái nhảm nhí ngày xưa bỗng chốc được dẹp qua một bên. Luật lệ được tẩy xóa. Xin cảm ơn và tuyên dương cô đào hát họ Trương! Giọng ca tiếng hát và có lẽ cả thân hình của cô đã cảm hóa được lòng người, phá bỏ được bất công. Nhờ cô mà con cháu mở mày mở mặt.
Nhưng thói đời, bia miệng thì cứ trơ trơ. Mặc dù vua chúa đã thôi lấy thịt đè người, đè con hát từ lâu rồi, nhưng thành kiến xướng ca vô loài vẫn cứ bám rễ trong đầu nhiều người đến tận đầu thế kỉ 20. Mẹ và em gái Tản Đà bất đắc dĩ phải "đắp đổi tháng ngày bằng điệu phách câu ca", bị "người ta hùa cả nhau vào bài xích việc xướng ca là việc giăng hoa đ-ĩ bợm." (Nguyễn Mạnh Bổng, 1944).
Bỗng dưng xướng ca lại được tặng thêm hỗn danh đ-ĩ bợm. Tại sao vậy? Xướng ca có liên hệ gì với đ-ĩ à?
Vậy đ-ĩ là gì, là ai?
Trong văn học, người Tàu gọi các cô làm nghề xướng ca là kĩ nữ. Kĩ nữ nguyên nghĩa chỉ là người con gái làm nghề ca xướng, múa hát. Chữ kĩ (bộ nữ) của tiếng Hán được ta đọc Nôm thành đ-ĩ. Kĩ nữ của Tàu trở thành Con đ-ĩ của ta. Kĩ nữ và con đ-ĩ là hai chị em ruột. Con đ-ĩ ngày xưa chỉ có nghĩa là người con gái làm nghề hát xướng chứ không phải là con đ-ĩ làm nghề mại dâm như ngày nay!
Thật hay đùa vậy?
Xem vậy thì vai trò của con đ-ĩ ngày xưa cũng không có gì là tệ lắm, được múa hát diễn hành trước cả long đình, kiệu thánh, các bô lão, chức sắc của làng.Nguyên văn của Phan Kế Bính:
Xưa kia, trước khi làng mở hội cho mọi người vui chơi thì các vị chức sắc phải tổ chức tế lễ ngoài đình. Có rước phụng nghênh hồi đình (rước long kiệu từ miếu về đình) rất long trọng. Nghi trượng gồm nào cờ quạt, voi ngựa, nào bát bửu, cờ biển. Rồi đến phường đồng văn đánh trống, gõ thanh la, theo sau là mấy người con gái, đôi khi là con trai giả gái, vừa vỗ trống vừa múa hát gọi là con đ-ĩ đánh bồng. Theo sau con đ-ĩ đánh bồng là cờ vía, lọng vàng, lệnh kiếm, phường bát âm, long đình, kiệu thánh... và sau cùng là bô lão, chức sắc của làng.
(Việt Nam phong tục tr. 96-100, 1990, NXB Tổng Hợp Đồng Tháp)
Nếu chỉ múa hát thôi thì chẳng có gì là xấu. Có xấu chăng là kể từ ngày các con đ-ĩ bị giới trưởng giả, mấy ông trí thức mời về nhà hát. Chính những vị tai mắt, khoa bảng, đã mở đường hoặc tiếp tay làm biến chất, làm hư các con đ-ĩ.
Buổi hát ban đầu rất lịch thiệp. Các quan ăn uống vui chơi, các cô hầu rượu, múa hát những bài do các quan yêu cầu.
Những chầu hát cô đầu dần dần bị những người thiếu tư cách biến thành nơi cợt nhả, bá vai gối đùi.Nguyên văn của Dương Khuê:
Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu (...)
(Hồng Tuyết)
Rồi chẳng bao lâu, buổi hát chỉ còn là cái cớ cho những trận trác táng, tằng tịu, dâm loàn.Nguyên văn của Trần Tế Xương:
Nhân sinh quý thích chí
Còn gì hơn hú hí với cô đầu
(...)
Chơi cho thủng trống tầm bông.
(Chơi ả đào)
Con đ-ĩ vốn chuyên nghề hát xướng dần dần trở thành gái làng chơi.Nguyên văn của Trần Tế Xương:
Cũng ra đ-ĩ rạc
Bấy lâu nay đã toác toạc toàng toang
Chán chê rồi về đến đầu làng
Toan tấp tểnh những đường tu lý (...)
(Đ-ĩ rạc đi tu)
Các nhà hát tư mọc lên, lập thành xóm cô đầu. Vàng thau lẫn lộn, khó mà phân biệt được con hát thật với con gái làng chơi. Từ đây trở đi người ta đồng hóa đ-ĩ với gái làng chơi, gọi gái làng chơi là đ-ĩ.Nguyên văn của Nguyễn Khuyến:
Thiên hạ bao giờ cho hết đ-ĩ
Trời sinh ra cũng để mà chơi
Dễ mấy khi làm đ-ĩ gặp thời
Chơi thủng trống long dùi âu mới thích
(...)
Mai sau này giỗ có văn nôm
Cha đời con đ-ĩ cầu Nôm.
(Đ-ĩ cầu Nôm)
Sự biến chất này cũng tương tự như ý nghĩa của từ Thanh lâu (lầu xanh) và Hồng lâu (lầu hồng). Lầu xanh lúc đầu dùng để chỉ nhà sang trọng. Đến khoảng đời Đường thì được dùng để chỉ nơi ở của kĩ nữ. "Như vậy thì ngày nay Thanh Lâu không còn có nghĩa là nhà cao cửa đẹp mà chỉ có nghĩa là nhà kĩ nữ." (Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954), và cuối cùng trở thành:
Lầu xanh rõ ràng đã trở thành nơi chứa gái làng chơi, gái giang hồ.Nguyên văn của Nguyễn Du:
Lầu xanh có mụ Tú bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên
(Kiều)
Từ điển Génibrel (1898) và Gustave Hue (1937) cũng chép lầu xanh là maison de prostitution (nhà đ-ĩ, nhà thổ).Nguyên văn của Tôn Thọ Tường:
Ngoảnh mặt lại lầu xanh thương những kẻ
Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan
(Đ-ĩ già đi tu)
Lầu hồng xưa kia là chỗ ở của con gái nhà giàu:
Sau này lầu hồng cũng bị trở thành maison des chanteuses (nhà chứa con hát), và sau cùng là nhà chứa đ-ĩ.Nguyên văn của Nguyễn Du:
Đêm ngày lòng những giận lòng
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên
(Kiều)
Nhà chứa đ-ĩ thời Tây được gọi là nhà đỏ, nhà thổ. Chữ thổ không phải là chữ Hán, cũng không phải là chữ Việt. Thổ là âm của tiếng Pháp tolérance (cũng như thổ mộ là âm của tombereau). Nhà thổ tức là maison de tolérance (nhà chứa đ-ĩ) của Pháp. Xã hội ta thích ứng thật nhanh chóng với mọi hoàn cảnh!Nguyên văn của Hoàng Ngọc Phách:
Giang hồ từ thủa mười lăm,
Đến năm mười chín còn nằm trông xuân,
Xuân kia còn độ mấy lần,
Tấm thân phơi chốn bụi trần mà thương (...)
(Giọt lệ hồng lâu)
Tú Xương đã nắm bắt được chuyển biến của xã hội đương thời, đưa một dịch vụ ăn khách là thổ đ-ĩ vào văn học.Nguyên văn của Tú Xương:
Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đ-ĩ lại chơi lường.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) định nghĩa "nhà chứa" là nơi nuôi gái mãi dâm, tổ chức cho gái mãi dâm hành nghề, trong xã hội cũ. Đúng ra thì phải gọi là gái mại dâm (gái bán dâm), các ông đi chơi gái thì gọi là khách mãi dâm (khách mua dâm). Nhầm lẫn người mua với người bán âu cũng là thói quen đã có từ lâu. Nhưng nếu phân biệt được chủ với khách, người cho với kẻ nhận thì vẫn hơn. Nhất là trong thời buổi nhiễu nhương có cả các cậu, các ông bán dâm cho người cùng phái.
Người Hà Nội gọi các cô gái điếm thời Tây là đượi. Có người cho rằng đượi là nói trại của đười (con đười ươi, cùng họ với khỉ, tườu) vì các cô điếm đầu tóc bù xù, nửa người nửa ngợm, nửa đười ươi. Giải thích này nghe không xuôi tai vì phần đông các cô đượi đều ăn mặc hấp dẫn, son phấn, đầu tóc chải chuốt, phi dê (frisés). Có như vậy mới mong câu được khách chứ. Đầu bù tóc rối như đười ươi (mà đã có ai được thấy đầu tóc đười ươi chưa nhỉ?), thì đến tượng đồng đen, cột nhà cháy nó cũng chê, thì làm sao mà bán trôn nuôi miệng được? Có lẽ đượi chỉ là biến âm của đ-ĩ mà thôi. Đọc trại với ý khinh bỉ và phân biệt. Đượi là me tây, đ-ĩ là me ta. Đượi và đ-ĩ còn có tên là gái ăn sương. Tên nghe khá lãng mạn, nói lên được nỗi vất vả lúc đêm khuya thanh vắng.
Kiếm ăn chung với các cô đượi là bọn ma cô (maquereau), bọn bồi xăm (chambre). Thời Pháp còn có nhà Lục xì. Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết Làm đ-ĩ (1936) và phóng sự Lục xì (1937) nhưng tiếc rằng Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Văn học, 1987) không đăng những truyện này nên rốt cuộc vẫn không biết Lục xì là gì. Cái phiền của tuyển tập là vậy! Người khác chọn giùm mình. Cho đọc cái gì thì đọc cái ấy! Tra tìm trong từ điển Hán, Nôm thì không thấy Lục xì. Từ điển Gustave Hue có từ Lục xì nhưng lại không giải thích, chỉ cho biết Lục xì là một từ phon. (tôi đoán phon. là viết tắt chữ phonétique, nghĩa là đọc theo âm). Nếu vậy thì Lục xì có thể là âm cuối của chữ syphilis (bệnh hoa liễu, còn gọi là giang mai, nôm na là bệnh lậu hay tim la). Nhà Lục xì là nơi khám bệnh hoa liễu cho các cô điếm thời Tây.
Thực dân Pháp đem vào nước ta một loại kĩ nữ mới là vũ nữ, các cô gái nhảy, ca ve (cavalière). Gái nhảy phải biết... nhảy đầm, không cần biết hát. Các cô hành nghề tại các đăng xinh (dancing). Ông nào chồn chân muốn nhảy thì mua vé, chọn gái nhảy. Nhiều cô... làm thêm giờ phụ trội, nhảy cả tại phòng riêng.
Trở lại với các nàng kĩ nữ.
Chữ kĩ ban đầu còn có nghĩa, còn được dịch là ả đào, đào hát, con nữ phường chèo. Sau này được dịch thẳng là đ-ĩ, con gái mại dâm (Đào Duy Anh), con đ-ĩ nhà thổ (Thiều Chửu).
Kĩ nữ và con đ-ĩ, tuy là đồng hội đồng thuyền, cùng là xướng ca vô loài nhưng cũng được phân biệt đối xử. Những lúc hứng bốc lên dạt dào thì thi sĩ gọi bọn này là kĩ nữ nghe cho thanh tao, lãng mạn! Nói đến kĩ nữ là người ta liên tưởng đến những số phận long đong, lỡ làng. Một kĩ nữ gảy khúc tì bà đã làm xúc động ông tư mã Giang Châu. Một kĩ nữ lênh đênh trên sông Hương ngợp ánh trăng đã làm mềm lòng nhiều thế hệ:
Người ta dễ thông cảm, xót thương cho số phận các nàng kĩ nữ và dửng dưng thậm chí khinh bỉ các nàng kĩ nữ nhập tịch Việt Nam, trở thành con đ-ĩ bình dân!Nguyên văn của Xuân Diệu:
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi!
Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời
Khách không ở, lòng em cô độc quá.
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả
Tay em đây mời khách ngả đầu say,
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
...
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi.
-Du khách đã đi rồi!
(Lời kỹ nữ)
Thành ngữ, ca dao của ta có rất nhiều câu ám chỉ bọn gái đ-ĩ già mồm. Sau những trận chơi cho thủng trống tầm bông, cho toác toạc toàng toang, các ông không quên núp sau lưng vợ, lên mặt đạo đức khuyên các cô làm đ-ĩ chín phương, để một phương lấy chồng.
Kẻ ít học cũng a dua nói leo vài câu vô nghĩa:
Đ-ĩ xơ đ-ĩ xác, đ-ĩ xạc đ-ĩ xờCũng có người thành thực hơn, ra mặt chê nhưng đúng hơn là ganh tị với đ-ĩ: "Làm đ-ĩ có tàn, có tán, có hương án thờ vua, có chuông chùa niệm Phật!". Toàn là chê, chửi, trách đ-ĩ. Tha hồ cho sướng miệng!
Đ-ĩ ở trên bờ, đ-ĩ lặn xuống ao
Ngày xưa người ta gọi trẻ con là thằng cu, cái đ-ĩ. Cu là dương vật. Đ-ĩ là gái làng chơi. Cu và đ-ĩ mang nghĩa xấu, được mê tín ngày xưa dùng với mục đích để ma quỷ chê đứa bé, không ám hại nó.
Ngôn ngữ hiện đại có từ kép đ-ĩ điếm. Điếm nghĩa là cái kho, cái nhà chứa đồ. Đ-ĩ điếm là từ kép nửa Việt nửa Hán, có nghĩa là nhà chứa đ-ĩ hay là ổ mại dâm. Gái làng chơi có thêm tên gọi tắt là gái điếm.
Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã hóa thân nàng kĩ nữ thành con đ-ĩ, con điếm.
Người xưa đồng hóa con hát với đ-ĩ điếm và gọi bọn này là xướng ca vô loài.
Năm 1945, bộ trưởng bộ Giáo Dục-Mĩ Thuật Hoàng Xuân Hãn đã làm một cuộc cách mạng văn hóa, đưa hát xướng vào chương trình bậc trung học. Hát xướng trở thành môn học bắt buộc. Xướng ca chính thức thoát khỏi cái nhục vô loài.
Ngày nay nước ta có trường dạy âm nhạc, kịch, tuồng, chèo, cải lương. Đủ các bộ môn xướng ca. Nghệ sĩ xuất sắc được tặng danh hiệu, gắn huân chương. Ai dại mồm dại miệng tuyên bố xướng ca vô loài chắc sẽ bị cả triệu người tát cho vỡ mặt.
Như vậy là nước ta hết đ-ĩ rồi chăng?
Hết làm sao được! Ngày nào còn các cậu, các ông lang bang, thèm của lạ thì ngày đó còn các cô, các bà làm cái nghề xưa nhất trên mặt trái đất này! Xướng ca vừa được phục hồi danh dự, được tôn vinh thì xã hội lại đẻ ra các nàng sờ nách ba (snack bar), bia ôm, mát xa (massage)... Có người mua thì có kẻ bán, còn người bán thì còn kẻ mua. Ngoạn mục thay cái đèn cù của kinh tế thị trường!
Có điều lạ và bất công là phường chèo, gánh hát có cả kép hát nhưng ngôn ngữ bình dân gần như bỏ quên bọn này. Sách vở của ta chỉ đả động đến con đ-ĩ chứ không nói đến thằng đ-ĩ. Không biết xã hội phong kiến ngày xưa có kĩ nam không? Ngày nay thì nhiều nước có. Không những có kĩ nam mà còn có cả kĩ sư ! Ấy chết, xin đừng vội hiểu lầm là các ông các bà kĩ sư là... bậc thầy của đ-ĩ ! Chữ kĩ (bộ thủ) của kĩ sư viết khác chữ kĩ (bộ nữ) của kĩ nữ. Kĩ sư là người có tài năng, chuyên về một kĩ thuật gì.
Các cô kĩ nữ, các ông kĩ nam tân thời có tên gọi đáng yêu là ca sĩ. Sĩ này được trọng vọng hơn cả sĩ của "Sĩ, nông, công, thương". Thần tượng của vô số người. Dưới ánh đèn mờ, khói thuốc âm u, nhạc dìu dặt, mơ màng nghe các cô hát, các cô ca, các cô la, thỉnh thoảng được ngắm một cái ngoáy, một cái ưỡn thì chao ôi...xướng ca quả là sướng quá!
Nguyễn Dư
Thứ Bảy, 15 tháng 1, 2011
địa chỉ phần mềm lý thuyết OTO 2010
đây là đị chỉ phần mềm tập thi lý thuyết lái xe ô tô 2010
http://download889.mediafire.com/z74r13z44f3g/0t4qs48q64xt77q/OTO2010.zip
http://download889.mediafire.com/z74r13z44f3g/0t4qs48q64xt77q/OTO2010.zip
Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010
cách viết kịch bản phân cảnh
Cách viết kịch bản phần cảnh
Kịch bản phân cảnh còn được gọi là kịch bản phân cảnh kỹ thuật. Được viết bởi sự kết hợp của Đạo diễn, biên kịch và quay phim.
Mình đã tham khảo một vài kịch bản phân cảnh của cả VN và nước ngoài. Và dưới đây là cách viết mà mình thấy hay nhất:
1. Nội ngày. Tại nhà Bà Chinh: Phải ghi rõ đoạn phim đó là quay ở bối cảnh ngoại hay nội, ngày hay đêm để bộ phận ánh sáng biết là sẽ phải sử dụng đèn chiếu sáng ra sao để đạt được hiệu quả mong muốn.
2. Cỡ cảnh: chúng ta ghi rõ cỡ cảnh, cách thay đổi về cỡ cảnh (nếu có) trong cảnh đó (VD: Từ Trung zoom vào cận). Việc ghi rõ cỡ cảnh sẽ cho thấy việc thay đổi các cảnh trong đoạn phim đó, đồng thời cũng cho thấy rõ được tiết tấu cảu đoạn phim.
3. Thời lượng: Việc ghi rõ thời lượng này phải phụ thuộc vào lời thoại và nhạc trong đoạn phim. Ngoài ra nó còn cho ta tính được thời lượng của cả đoạn là bao nhiêu. Thời lượng của 1 cảnh phải cung cấp đủ thông tin cho người xem biết cái mình muốn và có góp phần tạo lên tiết tấu nhanh (các cảnh có thời luọng ngắn) hay chậm (các cảnh có thời lượng dài).
4.Máy quay: Ở đây ta phải ghi rõ vị trí đặt máy, động tác máy, sử dụng ống kính nào, độ cao của máy là bao nhiêu. Việc ghi rõ như thế sẽ giúp cho QP biết được là sẽ làm gì, họa sĩ biết được sẽ sắp xếp bối cảnh ra sao.
5. Hình ảnh và âm thanh: Ở đây phải ghi rõ hành động của từng nhân vật, đi từ chỗ nào đến chỗ nào, nói câu gì, sử dụng tiếng động gì, âm thanh gì hay bản nhạc gì.
6. Ghi chú: Ghi rõ các đạo cụ, trang phục sử dụng trong đoạn phim và những lưu ý khác cho từng bộ phận (nếu có) VD: chỉ đạo diễn viên quần chúng.
Việc xây dựng Kịch bản phân cảnh càng chi tiết bao nhiêu thì càng thuận lợi cho đoàn làm phim khi tiến hành sản xuất. Tất cả các thành phần của đoàn đếu biết nhiệm vụ của mình ở từng cảnh quay trong từng đoạn phim.
Hơn nữa nó còn góp phần rất nhiều vào việc tiết kiệm chi phí sản xuất cho bộ phim khi chúng ta chọn cách quay theo bối cảnh (khác với quay theo kịch bản).
Kịch bản phân cảnh còn được gọi là kịch bản phân cảnh kỹ thuật. Được viết bởi sự kết hợp của Đạo diễn, biên kịch và quay phim.
Mình đã tham khảo một vài kịch bản phân cảnh của cả VN và nước ngoài. Và dưới đây là cách viết mà mình thấy hay nhất:
1. Nội ngày. Tại nhà Bà Chinh: Phải ghi rõ đoạn phim đó là quay ở bối cảnh ngoại hay nội, ngày hay đêm để bộ phận ánh sáng biết là sẽ phải sử dụng đèn chiếu sáng ra sao để đạt được hiệu quả mong muốn.
2. Cỡ cảnh: chúng ta ghi rõ cỡ cảnh, cách thay đổi về cỡ cảnh (nếu có) trong cảnh đó (VD: Từ Trung zoom vào cận). Việc ghi rõ cỡ cảnh sẽ cho thấy việc thay đổi các cảnh trong đoạn phim đó, đồng thời cũng cho thấy rõ được tiết tấu cảu đoạn phim.
3. Thời lượng: Việc ghi rõ thời lượng này phải phụ thuộc vào lời thoại và nhạc trong đoạn phim. Ngoài ra nó còn cho ta tính được thời lượng của cả đoạn là bao nhiêu. Thời lượng của 1 cảnh phải cung cấp đủ thông tin cho người xem biết cái mình muốn và có góp phần tạo lên tiết tấu nhanh (các cảnh có thời luọng ngắn) hay chậm (các cảnh có thời lượng dài).
4.Máy quay: Ở đây ta phải ghi rõ vị trí đặt máy, động tác máy, sử dụng ống kính nào, độ cao của máy là bao nhiêu. Việc ghi rõ như thế sẽ giúp cho QP biết được là sẽ làm gì, họa sĩ biết được sẽ sắp xếp bối cảnh ra sao.
5. Hình ảnh và âm thanh: Ở đây phải ghi rõ hành động của từng nhân vật, đi từ chỗ nào đến chỗ nào, nói câu gì, sử dụng tiếng động gì, âm thanh gì hay bản nhạc gì.
6. Ghi chú: Ghi rõ các đạo cụ, trang phục sử dụng trong đoạn phim và những lưu ý khác cho từng bộ phận (nếu có) VD: chỉ đạo diễn viên quần chúng.
Việc xây dựng Kịch bản phân cảnh càng chi tiết bao nhiêu thì càng thuận lợi cho đoàn làm phim khi tiến hành sản xuất. Tất cả các thành phần của đoàn đếu biết nhiệm vụ của mình ở từng cảnh quay trong từng đoạn phim.
Hơn nữa nó còn góp phần rất nhiều vào việc tiết kiệm chi phí sản xuất cho bộ phim khi chúng ta chọn cách quay theo bối cảnh (khác với quay theo kịch bản).
__________________
phân cảnh trong kịch bản
PHÂN CẢNH
Phân cảnh giản dị là chọn hình ảnh để kể câu chuyện mà bạn muốn kể trong phim.
Phim có nhiều đoạn (sequence). Mỗi đoạn đoạn có nhiều cảnh (scene). Cảnh có nhiều cú máy (shot). SCENE là đơn vị căn bản của phim. Dù phim truyện dài với hơn 100 scene hay phim ngắn với 3 scene thì scene vẫn là đơn vị căn bản. SHOT là đơn vị nhỏ nhất của phim. Trong bài đầu tiên này tôi xin nói về các yếu tố cơ bản của SHOT.
Chúng ta thử tưởng tượng phim Trương Chi.
Sequence 1: Mỵ Nương nghe tiếng tiêu, yêu người thổi tiêu.
Sequence 2: vua rước Trương Chi vào cung cho MN gặp mặt. TC nghèo xấu, MN đuổi đi.
Sequence 3: TC tương tư, chết, tim không tan.
Sequence 4: Ai đó lấy tim anh tạc thành cái ly đưa cho MN uống nước. MN nhỏ một giọt nước mắt, ly tan.
Sequence 1 chia làm nhiều scene.
Người viết kịch bản sẽ viết giống giống như vầy (SCENE 001)
001 NỘI - CUNG HOÀNG TỘC / PHÒNG MỴ NƯƠNG - NGÀY
Phòng MỴ NƯƠNG ở trên lầu cao. MN (19 tuổi) ngồi trên chiếc ghế đặt bên cửa sổ, cô đang đọc sách. Từ bầu trời bên ngoài vẳng lại tiếng tiêu réo rắt khi còn khi mất. MN vừa đọc vừa mơ màng.
Cửa mở, một TỲ NỮ (16) mang khay trà bước vào, cúi chào MN. Cô chưa kịp đặt khay xuống, MN đã hỏi.
MỴ NƯƠNG
Cứ mỗi chiều lúc sắp tắt nắng, người ấy lại thổi tiêu. Em nghe không?
CUNG NỮ
Không. À, mà có nghe. Ai mà rảnh thế nhỉ?
MỴ NƯƠNG
Hôm nào người ấy không thổi, ta không muốn ăn cơm, không muốn ngủ.
Phòng Mỵ Nương và đoạn thoại giữa MN và cung nữ là một SCENE. Biên kịch chỉ viết SCENE chứ chưa đi vào đơn vị nhỏ hơn là SHOT.
Đạo diễn là người chia cảnh ấy ra thành nhiều SHOT. Công việc đó là PHÂN CẢNH.
Thử 4 shot đầu nhé (4 shot này chỉ mới chừng 30 giây đầu tiên của phim. Chưa có thoại gì hết):
Shot 01: (Rộng: Máy đặt trong phòng hướng về phía cửa sổ) MN ngồi ở khung cửa và đang đọc một cuốn thơ. Tay cô lật qua trang.
Shot 02: (Cận) Những ngón tay rất đẹp của MN cầm lấy một góc trang để lật trang sách, trên đó có in một bài thơ tựa là: Tương tư chiều.
Shot 03: (Trung: Máy vẫn hướng về phía cửa sổ, đặt gần MN hơn shot 001) Mỵ nương tiếp tục đọc, nhưng mơ màng nghe tiêu, có đọc được gì đâu. Có tiếng mở cửa. MN quay ra mặt nhìn.
Shot 04: (Trung: Máy hướng về cửa vào phòng) Cung nữ ở ngưỡng cửa tay bưng khay trà, bước vào phòng, ra khỏi khung.
Ráp các shot này lại, ta biết được khung cảnh mở đầu của chuyện. Mỗi shot phải có 6 yếu tố sau:
1. SỰ THÚC ĐẨY
2. THÔNG TIN
3. BỨC ẢNH
4. ÂM THANH
5. SỰ THAY ĐỔI
6. SỰ LIÊN TỤC
Mỗi yếu tố đều quan trọng. Để đi sâu, cần có nhiều cuốn sách cho mỗi yếu tố. Ở đây tôi chỉ nói sơ lược.
1. SỰ THÚC ĐẨY
Người xem phim sẽ cho là mạch phim tự nhiên liền lạc khi họ MONG được xem cái gì, máy quay sẽ đưa mắt họ đến đó. Nếu những khung hình nối tiếp nhau không có lý do sẽ làm cho câu chuyện có vẻ khúc mắc.
Bạn cho người ta xem một khung hình. Xem được vài giây, bạn đổi qua một khung khác. Bạn làm như vậy không tùy hứng, mà vì bạn biết người xem muốn xem cái khung kế đó. Tại sao họ muốn xem cái khung kế? Cũng là do chính bạn, người kể chuyện, dẫn sự chú ý của họ tới đó. Rồi bạn cho họ xem cái họ muốn xem. Điều này tạo sự mạch lạc. Nếu không có sự thúc đẩy, người dựng phim sẽ hỏi bạn: Người xem đang nhìn cái này việc gì phải quay đầu nhìn qua kia, việc gì tôi phải đổi SHOT?
Ví dụ xem SHOT 001 MN đang ngồi đọc sách. Chính vì nàng đưa mấy ngón tay đẹp lên lật trang làm cho người xem MONG được nhìn gần hơn để thấy những ngón tay của một công chúa nó đẹp như thế nào và công chúa đọc thứ sách gì. Đó là lý do, là SỰ THÚC ĐẨY để cắt qua khung hình shot 002: Cận, cho thấy bàn tay của nàng và tựa bài thơ nàng đang đọc. SỰ THÚC ĐẨY trong trường hợp này được gây ra nhờ hình ảnh (công chúa lật trang). Có một SỰ THÚC ĐẨY do ÂM THANH gây ra ở cuối SHOT 003: Shot này tả MN đang mơ màng nghe tiếng sáo. Bỗng nhiên có tiếng mở cửa. Tiếng mở cửa làm cho người xem muốn biết AI bước vào phòng. Vậy là bạn đã có lý do để cắt qua SHOT 004: Thì ra là cung nữ mang bình trà vô cho công chúa uống.
2. THÔNG TIN
Một cú máy phải đem lại THÔNG TIN cho người xem, tiếp theo những thông tin mà họ đã được biết từ cú máy trước đó. Thông tin này có thể nhờ hình ảnh, hoặc nhờ âm thanh (thoại, chẳng hạn). Bạn khai mở câu chuyện. Thông tin có thể đưa câu trả lời hoặc chỉ đưa ra câu hỏi.
Trong shot 001, bức hình của bạn trả lời các câu hỏi được trả lời:
- Căn phòng thế nào? Trang trí kiểu Việt xưa, vậy là chuyện này lâu rồi, ở VN.
- Ai ngồi xem sách.? Trẻ mà tiền đâu mua áo quần đẹp quá, chắc là con nhà giàu.
- Cô ấy ngồi như thế nào? Lưng thẳng, đài các mà, chắc con quan hay con vua.
Và nó đem lại vài câu hỏi khác chưa có câu trả lời:
- Tiếng tiêu của ai vậy kìa?
- Cô gái đang nghĩ gì?
Những câu hỏi chưa có câu trả lời này khiến người ta muốn xem tiếp.
3. BỨC ẢNH
Mỗi SHOT đều được cân nhắc (sáng tác) thận trọng như họa sĩ vẽ một bức tranh, nên tôi tạm gọi đây là một BỨC ẢNH. Nó bao gồm:
- Khung hình (frame): gồm có chiều ngang và chiều dọc đóng khung hình ảnh lại.
- Chiều sâu (depth): chiều thứ ba, chiều sâu, thật ra chỉ là một ảo giác, được tạo nên nhờ sự sắp đặt người, vật và đường nét trong khung, cách đặt máy, chọn ống kính, và ánh sáng.
- Cảnh/diễn viên/đạo cụ
- Màu, ánh sáng.
Bức ảnh là điều quyết định thị giác và cảm giác của phim . Hôm nào có dịp chúng ta có thể bàn rộng về BỨC ẢNH.
4. ÂM THANH
Nguyên tắc khi ghép ÂM THANH vào SHOT là: "Người xem PHẢI nghe những gì họ THẤY, nhưng họ không cần thấy những gì họ NGHE. Nghĩa là nếu THẤY cửa mở mà không NGHE tiếng cửa mở thì không được, nhưng họ vẫn có thể NGHE tiếng sáo mà KHÔNG THẤY người thổi sáo.
Âm thanh rất quan trọng, cũng cần nhiều chương sách riêng về nó, Khi đạo diễn đóng khung một bức ảnh với nhiều chi tiết, người xem có thể CHỌN nhìn cái này kỹ hơn và bỏ qua cái kia, chứ âm thanh thì người xem không có sự chọn lựa đó. Họ phải nghe tất cả những gì đạo diễn cho họ nghe, và ảnh hưởng tâm lý âm thanh mang lại rất sâu rộng, đối với nhiều người, âm thanh quan trọng cho cảm giác của phim hơn cả hình ảnh.
5. GÓC MÁY
Tốt nhất là mỗi lần đổi shot ta cũng nên đổi góc máy. Đổi góc máy là đổi hướng nhìn, đem lại những thông tin mới và khác hoặc thêm vào cái người xem đã thấy rồi.
Góc máy chính là hướng mắt của một người nào đó. Trong phim, chỉ có cái nhìn của nhân vật (POV: point of view) và cái nhìn của người xem, tức là không của ai cả. Bạn phải rất cẩn thận với cái nhìn của một người thứ ba. Chẳng hạn có hai người đi từ sân vào nhà. Bạn chỉ có hai lựa chọn: góc máy từ hướng mắt của nhân vật, hoặc góc máy là hướng mắt của khán giả. Nếu bạn quay hai người đi vào nhà và thích đặt máy xuyên qua bờ dậu vì thấy nó ly kỳ, người xem sẽ hiểu lầm rằng có một người thứ ba đang quan sát rình rập hai người kia từ sau bờ dậu, và phim bị sai văn phạm.
6. SỰ LIÊN TỤC
Chuyển SHOT gọi là CUT. Có hai loại là CUT liên tục (continuous cut) và không liên tục (jump cut). Sau một số continuous cut, đạo diễn có thể dùng jump cut để cắt ngắn thời gian.
Nếu cả một đoạn phim ghép các SHOT không liên tục nhau để tả nhanh nhiều biến cố của vài năm trong vòng một hai phút, thì người ta dùng tiếng Pháp MONTAGE có nghĩa là chắp nối hình ảnh (trong khi trong tiếng Pháp, MONTAGE có nghĩa là dựng phim). Sự liên tục của hình ảnh và âm thanh làm cho người xem thấy mình đang quan sát THỰC diễn biến trên màn ảnh hơn là nó được kể lại.
Cả hình ảnh và âm thanh đều cần có sự liên tục. Cần chú ý:
1. Nội dung
Thí dụ ở shot trước điếu thuốc của diễn viên hút đã hết, mà qua shot sau nó còn dài thì sai, nó phải ngắn như ở shot trước.
2. Cử động
Bàn tay kéo điếu thuốc ra khỏi miệng của diễn viên trong shot sau phải tiếp đúng cử động từ shot trước.
3. Vị trí và hướng
Một người chạy đang từ trái sang phải khung hình. Qua shot kế nếu đặt máy ở vị trí đối diện khiến người này chạy từ phải sang trái sẽ làm người xem anh ta đã đổi hướng và đang chạy đi bỗng chạy về.
4. Thoại
Phải có sự liên tục của thoại.
Bài viết của fool bên yxine.com
Phân cảnh giản dị là chọn hình ảnh để kể câu chuyện mà bạn muốn kể trong phim.
Phim có nhiều đoạn (sequence). Mỗi đoạn đoạn có nhiều cảnh (scene). Cảnh có nhiều cú máy (shot). SCENE là đơn vị căn bản của phim. Dù phim truyện dài với hơn 100 scene hay phim ngắn với 3 scene thì scene vẫn là đơn vị căn bản. SHOT là đơn vị nhỏ nhất của phim. Trong bài đầu tiên này tôi xin nói về các yếu tố cơ bản của SHOT.
Chúng ta thử tưởng tượng phim Trương Chi.
Sequence 1: Mỵ Nương nghe tiếng tiêu, yêu người thổi tiêu.
Sequence 2: vua rước Trương Chi vào cung cho MN gặp mặt. TC nghèo xấu, MN đuổi đi.
Sequence 3: TC tương tư, chết, tim không tan.
Sequence 4: Ai đó lấy tim anh tạc thành cái ly đưa cho MN uống nước. MN nhỏ một giọt nước mắt, ly tan.
Sequence 1 chia làm nhiều scene.
Người viết kịch bản sẽ viết giống giống như vầy (SCENE 001)
001 NỘI - CUNG HOÀNG TỘC / PHÒNG MỴ NƯƠNG - NGÀY
Phòng MỴ NƯƠNG ở trên lầu cao. MN (19 tuổi) ngồi trên chiếc ghế đặt bên cửa sổ, cô đang đọc sách. Từ bầu trời bên ngoài vẳng lại tiếng tiêu réo rắt khi còn khi mất. MN vừa đọc vừa mơ màng.
Cửa mở, một TỲ NỮ (16) mang khay trà bước vào, cúi chào MN. Cô chưa kịp đặt khay xuống, MN đã hỏi.
MỴ NƯƠNG
Cứ mỗi chiều lúc sắp tắt nắng, người ấy lại thổi tiêu. Em nghe không?
CUNG NỮ
Không. À, mà có nghe. Ai mà rảnh thế nhỉ?
MỴ NƯƠNG
Hôm nào người ấy không thổi, ta không muốn ăn cơm, không muốn ngủ.
Phòng Mỵ Nương và đoạn thoại giữa MN và cung nữ là một SCENE. Biên kịch chỉ viết SCENE chứ chưa đi vào đơn vị nhỏ hơn là SHOT.
Đạo diễn là người chia cảnh ấy ra thành nhiều SHOT. Công việc đó là PHÂN CẢNH.
Thử 4 shot đầu nhé (4 shot này chỉ mới chừng 30 giây đầu tiên của phim. Chưa có thoại gì hết):
Shot 01: (Rộng: Máy đặt trong phòng hướng về phía cửa sổ) MN ngồi ở khung cửa và đang đọc một cuốn thơ. Tay cô lật qua trang.
Shot 02: (Cận) Những ngón tay rất đẹp của MN cầm lấy một góc trang để lật trang sách, trên đó có in một bài thơ tựa là: Tương tư chiều.
Shot 03: (Trung: Máy vẫn hướng về phía cửa sổ, đặt gần MN hơn shot 001) Mỵ nương tiếp tục đọc, nhưng mơ màng nghe tiêu, có đọc được gì đâu. Có tiếng mở cửa. MN quay ra mặt nhìn.
Shot 04: (Trung: Máy hướng về cửa vào phòng) Cung nữ ở ngưỡng cửa tay bưng khay trà, bước vào phòng, ra khỏi khung.
Ráp các shot này lại, ta biết được khung cảnh mở đầu của chuyện. Mỗi shot phải có 6 yếu tố sau:
1. SỰ THÚC ĐẨY
2. THÔNG TIN
3. BỨC ẢNH
4. ÂM THANH
5. SỰ THAY ĐỔI
6. SỰ LIÊN TỤC
Mỗi yếu tố đều quan trọng. Để đi sâu, cần có nhiều cuốn sách cho mỗi yếu tố. Ở đây tôi chỉ nói sơ lược.
1. SỰ THÚC ĐẨY
Người xem phim sẽ cho là mạch phim tự nhiên liền lạc khi họ MONG được xem cái gì, máy quay sẽ đưa mắt họ đến đó. Nếu những khung hình nối tiếp nhau không có lý do sẽ làm cho câu chuyện có vẻ khúc mắc.
Bạn cho người ta xem một khung hình. Xem được vài giây, bạn đổi qua một khung khác. Bạn làm như vậy không tùy hứng, mà vì bạn biết người xem muốn xem cái khung kế đó. Tại sao họ muốn xem cái khung kế? Cũng là do chính bạn, người kể chuyện, dẫn sự chú ý của họ tới đó. Rồi bạn cho họ xem cái họ muốn xem. Điều này tạo sự mạch lạc. Nếu không có sự thúc đẩy, người dựng phim sẽ hỏi bạn: Người xem đang nhìn cái này việc gì phải quay đầu nhìn qua kia, việc gì tôi phải đổi SHOT?
Ví dụ xem SHOT 001 MN đang ngồi đọc sách. Chính vì nàng đưa mấy ngón tay đẹp lên lật trang làm cho người xem MONG được nhìn gần hơn để thấy những ngón tay của một công chúa nó đẹp như thế nào và công chúa đọc thứ sách gì. Đó là lý do, là SỰ THÚC ĐẨY để cắt qua khung hình shot 002: Cận, cho thấy bàn tay của nàng và tựa bài thơ nàng đang đọc. SỰ THÚC ĐẨY trong trường hợp này được gây ra nhờ hình ảnh (công chúa lật trang). Có một SỰ THÚC ĐẨY do ÂM THANH gây ra ở cuối SHOT 003: Shot này tả MN đang mơ màng nghe tiếng sáo. Bỗng nhiên có tiếng mở cửa. Tiếng mở cửa làm cho người xem muốn biết AI bước vào phòng. Vậy là bạn đã có lý do để cắt qua SHOT 004: Thì ra là cung nữ mang bình trà vô cho công chúa uống.
2. THÔNG TIN
Một cú máy phải đem lại THÔNG TIN cho người xem, tiếp theo những thông tin mà họ đã được biết từ cú máy trước đó. Thông tin này có thể nhờ hình ảnh, hoặc nhờ âm thanh (thoại, chẳng hạn). Bạn khai mở câu chuyện. Thông tin có thể đưa câu trả lời hoặc chỉ đưa ra câu hỏi.
Trong shot 001, bức hình của bạn trả lời các câu hỏi được trả lời:
- Căn phòng thế nào? Trang trí kiểu Việt xưa, vậy là chuyện này lâu rồi, ở VN.
- Ai ngồi xem sách.? Trẻ mà tiền đâu mua áo quần đẹp quá, chắc là con nhà giàu.
- Cô ấy ngồi như thế nào? Lưng thẳng, đài các mà, chắc con quan hay con vua.
Và nó đem lại vài câu hỏi khác chưa có câu trả lời:
- Tiếng tiêu của ai vậy kìa?
- Cô gái đang nghĩ gì?
Những câu hỏi chưa có câu trả lời này khiến người ta muốn xem tiếp.
3. BỨC ẢNH
Mỗi SHOT đều được cân nhắc (sáng tác) thận trọng như họa sĩ vẽ một bức tranh, nên tôi tạm gọi đây là một BỨC ẢNH. Nó bao gồm:
- Khung hình (frame): gồm có chiều ngang và chiều dọc đóng khung hình ảnh lại.
- Chiều sâu (depth): chiều thứ ba, chiều sâu, thật ra chỉ là một ảo giác, được tạo nên nhờ sự sắp đặt người, vật và đường nét trong khung, cách đặt máy, chọn ống kính, và ánh sáng.
- Cảnh/diễn viên/đạo cụ
- Màu, ánh sáng.
Bức ảnh là điều quyết định thị giác và cảm giác của phim . Hôm nào có dịp chúng ta có thể bàn rộng về BỨC ẢNH.
4. ÂM THANH
Nguyên tắc khi ghép ÂM THANH vào SHOT là: "Người xem PHẢI nghe những gì họ THẤY, nhưng họ không cần thấy những gì họ NGHE. Nghĩa là nếu THẤY cửa mở mà không NGHE tiếng cửa mở thì không được, nhưng họ vẫn có thể NGHE tiếng sáo mà KHÔNG THẤY người thổi sáo.
Âm thanh rất quan trọng, cũng cần nhiều chương sách riêng về nó, Khi đạo diễn đóng khung một bức ảnh với nhiều chi tiết, người xem có thể CHỌN nhìn cái này kỹ hơn và bỏ qua cái kia, chứ âm thanh thì người xem không có sự chọn lựa đó. Họ phải nghe tất cả những gì đạo diễn cho họ nghe, và ảnh hưởng tâm lý âm thanh mang lại rất sâu rộng, đối với nhiều người, âm thanh quan trọng cho cảm giác của phim hơn cả hình ảnh.
5. GÓC MÁY
Tốt nhất là mỗi lần đổi shot ta cũng nên đổi góc máy. Đổi góc máy là đổi hướng nhìn, đem lại những thông tin mới và khác hoặc thêm vào cái người xem đã thấy rồi.
Góc máy chính là hướng mắt của một người nào đó. Trong phim, chỉ có cái nhìn của nhân vật (POV: point of view) và cái nhìn của người xem, tức là không của ai cả. Bạn phải rất cẩn thận với cái nhìn của một người thứ ba. Chẳng hạn có hai người đi từ sân vào nhà. Bạn chỉ có hai lựa chọn: góc máy từ hướng mắt của nhân vật, hoặc góc máy là hướng mắt của khán giả. Nếu bạn quay hai người đi vào nhà và thích đặt máy xuyên qua bờ dậu vì thấy nó ly kỳ, người xem sẽ hiểu lầm rằng có một người thứ ba đang quan sát rình rập hai người kia từ sau bờ dậu, và phim bị sai văn phạm.
6. SỰ LIÊN TỤC
Chuyển SHOT gọi là CUT. Có hai loại là CUT liên tục (continuous cut) và không liên tục (jump cut). Sau một số continuous cut, đạo diễn có thể dùng jump cut để cắt ngắn thời gian.
Nếu cả một đoạn phim ghép các SHOT không liên tục nhau để tả nhanh nhiều biến cố của vài năm trong vòng một hai phút, thì người ta dùng tiếng Pháp MONTAGE có nghĩa là chắp nối hình ảnh (trong khi trong tiếng Pháp, MONTAGE có nghĩa là dựng phim). Sự liên tục của hình ảnh và âm thanh làm cho người xem thấy mình đang quan sát THỰC diễn biến trên màn ảnh hơn là nó được kể lại.
Cả hình ảnh và âm thanh đều cần có sự liên tục. Cần chú ý:
1. Nội dung
Thí dụ ở shot trước điếu thuốc của diễn viên hút đã hết, mà qua shot sau nó còn dài thì sai, nó phải ngắn như ở shot trước.
2. Cử động
Bàn tay kéo điếu thuốc ra khỏi miệng của diễn viên trong shot sau phải tiếp đúng cử động từ shot trước.
3. Vị trí và hướng
Một người chạy đang từ trái sang phải khung hình. Qua shot kế nếu đặt máy ở vị trí đối diện khiến người này chạy từ phải sang trái sẽ làm người xem anh ta đã đổi hướng và đang chạy đi bỗng chạy về.
4. Thoại
Phải có sự liên tục của thoại.
Bài viết của fool bên yxine.com
__________________
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)